Đồng chí Lê Hồng Phong là một trong những người cộng sản lớp đầu tiên của nước ta, là Tổng Bí thư của Đảng và là Ủy viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Tên tuổi và sự nghiệp của Lê Hồng Phong gắn liền với một giai đoạn đầy thử thách và cam go của cách mạng Việt Nam trong những năm 20 và 30 của thế kỷ XX. Đồng chí đã hy sinh anh dũng khi mới 40 tuổi đời, trong đó có hơn 20 năm liên tục hoạt động, cống hiến cho Đảng, cho cách mạng. Cho đến giờ phút cuối cùng, đồng chí vẫn tỏ rõ khí phách hiên ngang, ý chí kiên cường, bất khuất của người chiến sĩ cộng sản tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Trước lúc đi xa, đồng chí còn căn dặn: Nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng tới giờ phút cuối cùng Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin vào thắng lợi vẻ vang của cách mạng.
Đồng chí Lê Hồng Phong tên thật là Lê Huy Doãn, sinh năm 1902 trong một gia đình nông dân ở làng Đông Thôn, tổng Thông Lạng, huyện Hưng Nguyên (nay là xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An) - vùng đất giàu truyền thống văn hiến và cách mạng.
Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh nước mất, nhân dân bị đọa đầy trong đau khổ dưới sự thống trị tàn bạo của thực dân Pháp xâm lược và bọn phong kiến tay sai. Chứng kiến những cuộc khởi nghĩa và phong trào đấu tranh yêu nước của đồng bào ta bị kẻ thù đàn áp đẫm máu, Lê Hồng Phong sớm nuôi trong mình tinh thần yêu nước và ý chí cách mạng để cứu nước, cứu dân. Sau khi học hết bậc Sơ học yếu lược, đồng chí rời quê ra thành phố Vinh, làm công nhân tại nhà máy diêm Bến Thủy, được tận mắt chứng kiến cuộc sống lầm than của những người lao động, Lê Hồng Phong đã vận động công nhân đứng lên đấu tranh. Sau sự kiện này, đồng chí quyết tâm bôn ba tìm đường cứu nước. Lúc đầu tham gia trong tổ chức Tâm Tâm Xã, hăng hái hoạt động, phát triển Tâm Tâm Xã (một tổ chức cách mạng ở nước ta lúc đó). Năm 1925, Lê Hồng Phong gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và tham dự lớp huấn luyện cán bộ do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tổ chức, trở thành một trong những cán bộ lãnh đạo lớp đầu tiên của cách mạng nước ta. Đồng chí đã được học tập toàn diện về quân sự và chính trị tại Trung Quốc, sau đó được lãnh tụ Nguyễn Ái quốc giới thiệu, cử sang học tập lý luận cách mạng và quân sự tại Liên Xô. Sau khi tốt nghiệp, Lê Hồng Phong đã hoạt động trong lực lượng Hồng quân Xô-viết và nhận trọng trách liên lạc giữa Đảng Cộng sản Đông Dương với Quốc tế Cộng sản. Trong thời gian này, đồng chí tiếp tục học tập lý luận cách mạng một cách hệ thống tại Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Mát-xcơ-va.
Sau cao trào Xô-viết Nghệ - Tĩnh (1930 - 1931), do sự khủng bố dã man và tàn bạo của thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam gặp muôn vàn khó khăn và tổn thất nặng nề. Các tổ chức đảng từ trung ương đến cơ sở phần nhiều bị tan vỡ hoặc tê liệt. Trước tình hình đó, tháng 11-1931, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong được cử về nước để lãnh đạo việc khôi phục, phát triển tổ chức Đảng, đưa cách mạng Đông Dương vượt qua giai đoạn khó khăn, hiểm nghèo.
Đầu năm 1932, khi đến thành phố Nam Ninh, Quảng Tây (Trung Quốc), đồng chí Lê Hồng Phong đã chắp nối liên lạc với các đồng chí lãnh đạo, đảng viên trung kiên của đảng, cùng nhau xây dựng Chương trình hành động của Đảng. Chương trình hành động của Đảng là một văn kiện chính trị quan trọng, khẳng định sự đúng đắn và nhất quán với đường lối cách mạng được Đảng ta vạch ra từ năm 1930, đánh giá cao thắng lợi của quần chúng cách mạng trong cao trào 1930 - 1931; đồng thời nghiêm khắc chỉ ra những sai lầm trong Đảng và đề ra yêu cầu kiên quyết khắc phục sai lầm, đưa cách mạng tiến lên. Đây là văn kiện rất quan trọng, có ý nghĩa hết sức to lớn, bởi ra đời trong lúc cách mạng Việt Nam đang bị khủng bố trắng, giữa lúc tổ chức đảng gặp nhiều khó khăn, phong trào cách mạng đang trong tình trạng thoái trào, những tư tưởng dao động, cơ hội đang thừa cơ trỗi dậy. Chương trình hành động của Đảng như nguồn sức mạnh mới tiếp sức cho cán bộ, đảng viên và quần chúng giữ được niềm tin vững chắc vào tiền đồ cách mạng, đẩy lùi tư tưởng cầu an, hoang mang dao động, tạo điều kiện cho việc khôi phục nhanh chóng hệ thống tổ chức của Đảng và phong trào cách mạng của quần chúng.
Để giải quyết vấn đề thiếu cán bộ, việc đầu tiên Lê Hồng Phong làm là mở lớp đào tạo cán bộ theo kinh nghiệm của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã làm trước đây. Lê Hồng Phong quyết định chuyển về Long Châu (một thị trấn nhỏ sát biên giới Việt Nam - Trung Quốc) và liên tục mở các lớp huấn luyện cho cán bộ từ trong nước sang học tập. Sau khi đào tạo, bồi dưỡng lý luận cách mạng và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, số cán bộ cốt cán này nhanh chóng được đưa về nước hoạt động gây dựng phong trào. Nhờ vậy, chỉ trong thời gian ngắn, các tổ chức đảng trong nước đã được khôi phục, nhất là các tổ chức đảng của các tỉnh như Cao Bằng, Lạng Sơn và các đảng bộ của các thành phố lớn như Hải Phòng, Hà Nội,…
Như vậy, cho đến cuối năm 1933, bằng năng lực, trí tuệ và quyết tâm của mình, đồng chí Lê Hồng Phong đã bước đầu hoàn thành trọng trách mà Quốc tế Cộng sản giao cho là xây dựng, khôi phục lại hệ thống tổ chức của Đảng và các cơ sở cách mạng trong cả nước, khơi dậy niềm tin của quần chúng với Đảng, với cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của đồng chí, các tổ chức đảng trong nước dần được khôi phục hoạt động trở lại và ngày càng lớn mạnh, phong trào cách mạng có bước phát triển mới.
Tháng 3-1934, Lê Hồng Phong cùng một số đồng chí lãnh đạo của Đảng tiến hành Hội nghị thành lập Ban lãnh đạo của Đảng ở ngoài nước, có chức năng như một Ban Chấp hành Trung ương lâm thời do đồng chí Lê Hồng Phong làm Bí thư. Ban lãnh đạo của Đảng ở ngoài nước, dưới sự lãnh đạo của đồng chí Lê Hồng Phong đã tích cực chuẩn bị các văn kiện và quyết định triệu tập Đại hội lần thứ nhất của Đảng họp tại Ma Cao (Trung Quốc) từ ngày 27 đến ngày 31-3-1935. Đại hội đã thông qua Nghị quyết chính trị, Điều lệ Đảng, một số văn kiện quan trọng khác, bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 13 ủy viên do đồng chí Lê Hồng Phong đứng đầu.
Cuối năm 1934, Lê Hồng Phong dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản họp tại Mát-xcơ-va (Liên Xô). Tại đây, đồng chí đã trình bày một bản báo cáo quan trọng về cuộc đấu tranh cách mạng của các dân tộc ở Đông Dương và đã được Đại hội đánh giá cao. Đại hội VII Quốc tế Cộng sản đã thông qua quyết nghị quan trọng, công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một phân bộ độc lập của Quốc tế Cộng sản và Đại hội bầu đồng chí Lê Hồng Phong làm Ủy viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản.
Tháng 7-1936, tại Thượng Hải, đồng chí Lê Hồng Phong đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương bổ sung Nghị quyết Đại hội lần thứ nhất, chỉ đạo chuyển hướng tổ chức và sách lược của Đảng, chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế rộng rãi, bao gồm các hình thức đấu tranh, hoạt động phong phú từ bí mật, bất hợp pháp đến công khai, bán công khai và hợp pháp, nhằm mục đích dự bị điều kiện cho cuộc vận động dân tộc giải phóng được phát triển, chuẩn bị về mọi mặt để đưa phong trào cách mạng chuyển sang cao trào 1936 - 1939.
Đồng chí Lê Hồng Phong - Người cộng sản kiên cường
Cuối năm 1937, đồng chí Lê Hồng Phong về nước, hoạt động ở Sài Gòn - Chợ Lớn, cùng các đồng chí Trung ương tích cực chỉ đạo việc thực hiện chủ trương chiến lược mới của Đảng, đồng thời trực tiếp chỉ đạo phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Ngày 22-6-1939, đồng chí Lê Hồng Phong bị thực dân Pháp bắt tại Sài Gòn. Biết đồng chí là một cán bộ cao cấp của Đảng, bọn mật thám dùng mọi thủ đoạn tra tấn dã man; dụ dỗ, lừa phỉnh, nhưng chúng không thể lay chuyển được tinh thần và ý chí của người cộng sản kiên cường. Tuy không đủ chứng cớ để buộc tội nhưng toà án của đế quốc Pháp vẫn kết án đồng chí 6 tháng tù giam và 3 năm quản thúc ở quê. Nhưng đến đầu năm 1940, chúng lại bắt đồng chí giải vào Sài Gòn. Thực dân Pháp biết rõ Lê Hồng Phong là một cán bộ lãnh đạo quan trọng của Đảng, là Ủy viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản nhưng không có chứng cứ buộc tội, chúng vẫn kết án đồng chí 5 năm tù giam với một lời buộc tội vu vơ là chịu trách nhiệm tinh thần về cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ và đày ra Côn Đảo.
Do bị cấm cố khắc nghiệt với chế độ ăn uống rất tồi tệ trong nhà tù của chế độ thực dân, đồng chí Lê Hồng Phong bị kiết lỵ khá nặng, được chuyển về dãy xà lim Banh II. Căn bệnh phổ biến và nguy hiểm ở Côn Đảo lúc ấy là kiết lỵ, ghẻ hờm (còn gọi là ghẻ hầm). Nhưng bất cứ bệnh gì thầy thuốc nhà tù cũng chỉ cho có hai thứ thuốc: nước vôi và bột than. Thật ra, những tù nhân bệnh tật chẳng được chữa chạy gì. Họ chỉ được tập trung về một nơi và lần lượt chết dần ở đấy. Tất cả tù nhân dù đang bị bệnh vẫn bị cầm cố xiềng xích cả chân tay, chế độ ăn uống rất tồi tệ, các yêu sách đều được trả lời bằng roi vọt…
Đây là thời kỳ khủng bố khốc liệt tại Nhà tù Côn Đảo. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (ngày 23-11-1940) đã khiến cho bọn thực dân vừa điên cuồng khủng bố trả thù, vừa nơm nớp lo sợ. Chúng sợ cả những người tù đang bị xiềng xích, đọa đày. Hằng ngày, bọn gác ngục săm soi, khám xét rất kỹ lưỡng để tìm cớ đàn áp tù nhân, thấy một viên phấn, một mẩu giấy là chúng khép vào tội “liên lạc”, “hoạt động chính trị”, thấy tù nhân tụ tập sinh hoạt là chúng vu cáo “âm mưu bạo động” và đàn áp rất dã man. Có lần, chúng đánh vào đầu đồng chí Lê Hồng Phong ngay trong bữa ăn, máu chan đỏ bát cơm. Đồng chí vẫn điềm nhiên ngồi ăn để có sức đấu tranh với quân thù. Có thể nói, trong hàng nghìn, hàng vạn chiến sĩ cộng sản và những nhà yêu nước Việt Nam vẫn bất khuất, kiên trung khi bị sa vào tay giặc trong lịch sử đấu tranh cách mạng của nước ta, đồng chí Tổng Bí thư Lê Hồng Phong là một trong những người bị quân thù hành dạ dã man, tàn bạo nhất. Vì biết rõ vai trò quan trọng của đồng chí trong việc lãnh đạo phong trào cách mạng Đông Dương nên những tên cầm đầu của bọn thực dân khát máu đã ra lệnh cho lũ thuộc hạ mất hết tính người, tìm mọi cách để hành hạ, giết hại đồng chí Lê Hồng Phong.
Chứng kiến bao lần kẻ thù thẳng tay sử dụng đủ loại nhục hình man rợ nhất để dày vò đến cực độ thể xác đồng chí Tổng Bí thư của Đảng, nhưng không mảy may làm nao núng được ý chí sắt thép của đồng chí, một người bạn tù Côn Đảo cùng thời kể lại: Sau một ngày khổ sai mệt nhọc, dưới những trận mưa roi tàn ác, mặt đồng chí Lê Hồng Phong hằn lên những vết roi ngang dọc, cái tím bầm lại, cái sưng húp lên, có chỗ loét ra, ri rỉ máu… Người đồng chí gầy đét, chỉ còn da bọc xương. Nước da đồng chí tái nhợt. Tất cả cái tiều tuỵ ấy lại được phơi ra dưới manh áo chàm rách mướp, thấm đẫm hồ hôi và bê bết máu… Gươm đao của kẻ thù có thể chặt đứt thép gang, nhưng nó sẽ oằn đi khi chặt phải dũng khí của người chiến sĩ cộng sản”(1).
Những đòn thù tàn ác, dã man của kẻ thù đã làm Lê Hồng Phong kiệt sức dần và hy sinh vào ngày 05-9-1942 tại khu cấm cố biệt lập Banh II. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, Lê Hồng Phong còn nói to lời trăng trối cho bạn tù ở các phòng bên: “Nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng, tới giờ phút cuối cùng, Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin thắng lợi vẻ vang của cách mạng”. Lòng tin vững chắc đó là nhân tố quan trọng tạo nên phẩm chất cách mạng kiên cường và những cống hiến to lớn của Lê Hồng Phong đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân, mãi mãi là nguồn sức mạnh cho các thế hệ đảng viên trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Đồng chí Lê Hồng Phong là một tấm gương hiến dâng trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của đồng chí luôn nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên cần nêu cao ý chí cách mạng, không ngừng phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, luôn học tập nâng cao trình độ và năng lực hoạt động thực tiễn, đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng lên trên lợi ích cá nhân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp vẻ vang của Đảng, của dân tộc.
Cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí luôn nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên nêu cao ý chí cách mạng, tự giác phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của người cộng sản, không ngừng học tập nâng cao trình độ mọi mặt, tích cực hoạt động thực tiễn, đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng và nhân dân lên trên lợi ích cá nhân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp vẻ vang của Đảng, của dân tộc. Học tập và noi gương đồng chí Lê Hồng Phong và các bậc cách mạng tiền bối khác, chúng ta tiếp tục thực hiện tốt việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, kiên quyết và kiên trì đấu tranh chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, chống chủ nghĩa cá nhân, tệ quan liêu, tham nhũng và mọi biểu hiện tiêu cực khác; xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo, người công bộc của nhân dân, ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh như Cương lĩnh của Đảng đã nêu ra.
Cuộc đời sự nghiệp và tấm gương chiến đấu kiên cường, sự hy sinh anh dũng của đồng chí Lê Hồng Phong vì độc lập dân tộc và lý tưởng cộng sản sống mãi trong trái tim các thế hệ người Việt Nam./.